Con người và đất đai

Thứ Hai, 17/03/2025

Ngay sau khi lên nắm quyền, tổng thống Mỹ Donald Trump phát đi một (trong nhiều) thông điệp gây xôn xao: ý định sát nhập Canada và Greenland vào lãnh thổ nước Mỹ. Thế giới kinh ngạc vì đã rất lâu rồi kể từ thời đại thực dân người ta mới lại thấy một quốc gia công khai ý định “thôn tính” một diện tích đất đai rất lớn đang thuộc chủ quyền của một quốc gia khác.

Suốt một thời gian dài, các xung đột chủ quyền chủ yếu diễn ra ở một vài khu vực cục bộ, hầu hết dừng ở mức tranh chấp đường biên giới hoặc đảo. Tuy nhiên, nếu nhìn rộng ra thì ba năm trước, Nga cũng phát động chiến dịch quân sự đặc biệt và tấn công Ukraina. Việc hai quốc gia lớn (cả về kinh tế, tiềm lực quân sự lẫn diện tích lãnh thổ) tỏ ý định mở rộng lãnh thổ, bằng chiến tranh, hoặc bằng đe dọa kinh tế không buồn che đậy, đã cho thấy tình trạng bất ổn toàn cầu đang trở nên trầm trọng, và đồng thời cũng làm nổi bật tầm quan trọng của đất đai và quyền sở hữu nó đối với các quốc gia và cộng đồng, một vấn đề nền tảng lâu nay bị che khuất bởi những xung đột ý hệ trên bề mặt.

Cuốn sách "Đát đai" của Simon Winchester được Nhã Nam phát hành.

Có vẻ để, ít nhất là, hiểu được tình trạng quốc tế hiện giờ, người ta cần trở lại với ý niệm đất đai cùng mối quan hệ của nó với con người trong suốt chiều dài lịch sử nhân loại. Cuốn sách Đất đai của Simon Winchester có thể xem là một hướng dẫn hiệu quả cho những độc giả muốn đi sâu vào vấn đề này.

Đất đai thoạt tiên dễ khiến người đọc hình dung nó bàn về địa chính trị, một đề tài nổi cộm gần đây. Quả đúng là cuốn sách có nhiều chỗ bàn về vấn đề địa thế của các quốc gia cùng các xung đột âm ỉ hoặc bùng phát liên quan đến đất đai, tuy nhiên phạm vi của nó rộng hơn thế. Đây là một cuốn sách khảo cứu chi tiết về mối quan hệ giữa người (vừa theo nghĩa cá nhân, vừa theo nghĩa tập thể) đối với đất đai nơi anh ta sống, canh tác, làm việc. Nó xuất phát từ một băn khoăn của tác giả: quyền sở hữu đất.

Simon thuật lại trải nghiệm của mình khi gom góp tiền mua lại một mảnh đất, và đột nhiên nhận ra việc mình sở hữu một mảnh đất hình như có vẻ rất vô lý. Ngày nay, hầu hết chúng ta đều coi việc sở hữu một diện tích bề mặt đất liền của hành tinh này là một chuyện hết sức hiển nhiên (mặc dù hình thức sở hữu có thể khác nhau, có những quốc gia, như Việt Nam, xem đất đai là sở hữu toàn dân, trong khi nhiều quốc gia khác thì công nhận quyền sở hữu tư nhân.)

Thế nhưng, nếu nghĩ kĩ, ta sẽ thấy sở hữu đất đai có gì đó, như lời tác giả, là “không chỉ xấc xược mà còn lố bịch”, bởi con người quá nhỏ bé, lịch sử nhân loại quá ngắn ngủi so với hành tinh này. Tác giả dẫn ra nhiều bằng chứng cho thấy thái độ sùng kính cổ xưa của con người đối với đất đai đã từng tồn tại phổ biến, trước khi nó bị đẩy lùi bởi cái nhìn hoàn toàn chịu sự chi phối của tinh thần vị lợi, đầu tiên là cái lợi sinh ra trên bề mặt, tức canh tác, rồi cái lợi trong lòng đất, liên quan đến khai khoáng, và cuối cùng là cái lợi ở dạng kinh doanh mua bán. Việc con người sở hữu đất đai không thể có nguồn gốc tự nhiên, mà là một phát minh, manh nha từ sự xuất hiện của nông nghiệp, rồi tăng tốc kể từ thời đại Khai sáng. Nghiên cứu kĩ lưỡng quyền sở hữu đất đai của con người sẽ giúp ta thấy được những nền móng sâu hơn của tinh thần con người hiện đại, đồng thời hình dung được những kịch bản tương lai khả dĩ.

Simon Winchester xem xét quyền sở hữu trên ba bình diện lớn: nhận thức, thâu tóm và quản lý đất đai. Để sở hữu một thứ gì thì trước hết anh phải ý thức được về nó đã, và đất đai đòi hỏi một kiểu nhận thức riêng: bản đồ. Mọi thứ bắt đầu với sự xuất hiện của nông nghiệp, khi con người bắt đầu rào lại một mảnh đất làm nơi canh tác, nơi anh ta hưởng lợi (và chịu hậu quả) từ lao động của mình chứ không phải của bất cứ kẻ nào khác. Sự phân chia đất đai đã phát sinh như thế.

Vấn đề trở nên phức tạp hơn vào thời kì phương Tây bắt đầu công cuộc khai phá thế giới và lập ra các thuộc địa, đặc biêt là ở Châu Mỹ - Tân thế giới. Những tiến bộ trong ngành hàng hải cho phép người Châu Âu có những phát kiến địa lý quan trọng, đồng thời tạo điều kiện hiện thực hóa ước mơ vẽ một bản đồ chính xác của địa cầu. Tác giả kê lại những cột mốc lớn trong lịch sử dài lâu của ngành bản đồ, như vòng cung trắc đạc Struve nhằm tính được kích thước hành tinh, cho đến sự xác lập với nhiều tranh cãi đường kinh tuyến gốc đã đặt nền tảng cho ước mơ của Albrech Penck về Bản đồ Thế giới Quốc tế - “một bản đồ chung cho một nhân loại chung”. Lịch sử vẽ bản đồ đã từng trải qua giai đoạn utopia với viễn kiến về một thế giới đại đồng và sự chung tay của khoa học.

Nhưng, cũng như trong rất nhiều lĩnh vực hoạt động khác của nhân loại, lịch sử ngành bản đồ cũng chứa đựng những trang đen tối, ở đó sự tắc trách, quan liêu, ngu dốt có thể gây ra những chia rẽ, xung đột khủng khiếp kéo dài suốt nhiều thập kỉ. Độc giả sẽ rất ngạc nhiên khi biết rằng bản đồ Ấn Độ hiện đại đã được vẽ bởi tay Cyril Radcliff, một viên chức làm việc ở London, chỉ trong bảy tuần ngắn ngủi. Bản đồ này đã đột ngột và tùy tiện phân chia các cộng đồng ở Ấn Độ mà không đếm xỉa gì đến các khác biệt và xung đột văn hóa sắc tộc âm ỉ trước đó. Hậu quả để lại là những cuộc chém giết cướp bóc tồi tệ đến mức bản thân Radcliff đã từ chối mọi khoản thù lao và đốt sạch mọi ghi chép, những mong hậu thế sẽ lãng quên ông, tác giả của Đường biên Máu. Những hệ quả nặng nề mà Radcliff gây ra bằng sự ngô nghê của mình vẫn còn kéo dài cho đến tận ngày nay.

Việc một bộ phận nhân loại cho rằng mình có thể (và có quyền) sở hữu đất đai tất yếu dẫn đến tình trạng cướp đoạt, thôn tính. Với ham muốn sôi sục trước thứ của cải có thể sinh ra thêm nhiều của cải nữa, con người hăm hở chiếm đoạt đất đai, hoặc vô chủ, hoặc (thường xuyên hơn) từng thuộc về một người nào khác. Nếu nhìn từ bình diện con người giành lấy đất đai từ thiên nhiên, đấy sẽ là một câu chuyện ca tụng sự tiến bộ của khoa học. Trường hợp mà Simon Winchester đề cập đến ở đây là đất nước Hà Lan, ở đó con người tạo ra kì tích là biến những vùng trước đây vốn là biển, trở thành đất liền, nhờ công cuộc xây đập mà tạo hẳn được một phần lãnh thổ rộng lớn và chống chọi khá hiệu quả tình trạng biển xâm thực – một hình mẫu mà bất cứ quốc gia giáp biển nào cũng cần học hỏi trong tình hình biến đổi khí hậu hiện nay. 

Nhưng lịch sử thâu tóm đất đai từ tự nhiên không thể sánh được về mức độ phức tạp, giảo hoạt, tàn nhẫn so với lịch sử thâu tóm đất đai giữa nhân loại với nhau. Độc giả sẽ phải ngạc nhiên trước những lí lẽ đa phần là lố bịch được viện ra trong thời đại thực dân khi người châu Âu tỏa đi khắp thế giới mà chiếm lấy những mảnh đất phần nhiều đã có chủ nhân, nhân danh nữ hoàng, nhân danh tôn giáo, nhân danh khai hóa văn minh, v.v... Chính ở đây ta thấy được sự thắng thế tuyệt đối của lòng tham của con người đối với đất đai, trước mọi nỗ lực của lí trí và đạo đức. Nghe thì lạ lùng nhưng nước Mỹ phần nào đã ra đời từ ham muốn thôn tính không thể kiềm hãm ấy. Năm 1763, vua George III của Anh tuyên bố các thực dân Anh Quốc không được phép mua, tước đoạt hay định cư trên đất đai nằm về phía tây rặng núi Appalachia, đảm bảo người da đỏ bản địa sẽ không bị quấy rầy ở khu vực này nữa. Mặc dù xuất phát từ mục đích bảo hộ việc buôn bán giữa Anh quốc và người Anh điêng, hành động này cũng có ảnh hưởng tích cực đến các bộ lạc bản địa.

 Tuy vậy, sắc lệnh này chọc tức các thực dân Anh vì hạn chế lòng tham của họ. George Washington, nhà lập quốc, tổng thống đầu tiên của Hoa Kỳ, cũng chịu thiệt hại từ sắc lệnh của mẫu quốc: 32 ngàn mẫu đất của ông nằm ở phía Tây đường Tuyên cáo, nghĩa là ông mất quyền sở hữu những đất đai màu mỡ này (Washington là dân đạc điền chuyên nghiệp, có thể đánh giá chính xác giá trị của một mảnh đất, bởi vậy hầu hết đất đai ông sở hữu đều rất có giá). Hệ quả mà tất cả chúng ta đều biết là Tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ năm 1776 và cuộc chiến tranh sẽ dẫn tới sự ra đời của nước Mỹ. Thật cay đắng khi nhận ra rằng quyền tự do được nhắc đến trang trọng trong Tuyên ngôn độc lập rất có thể mang một hàm ý, kín đáo nhưng cực kì dứt khoát, đấy là quyền tự do được cướp đoạt và thâu tóm đất đai, mà ngày nay được biết với cái tên hoa mỹ hơn là “Vận mệnh Hiển nhiên”. Sự kết hợp giữa lòng tham của con người và đất đai thật đáng sợ: không thứ đạo đức nào có thể ngăn cản được nó, và lòng tham ấy chỉ chấm dứt khi không còn đất đai nào để thâu tóm nữa.

Ngay khi xác lập được chủ quyền không thể tranh cãi, nghĩa là khi được giải phóng khỏi vấn đề tranh chấp, con người sẽ rẽ sang chuyện quản lý, tức câu hỏi: làm gì để đất đai đem lại lợi ích cho con người? Ở bình diện này, xung đột thường xảy ra giữa các tầng lớp xã hội và tất yếu chứa đựng nhiều bi kịch. Một trong nhiều sự kiện được Simon Winchester nhắc đến trong sách là tình trạng rào ruộng cướp đất ở nước Anh thế kỉ 18, mà sau này sẽ được Marx phân tích kĩ lưỡng trong Tư bản. Thời kì Khai sáng đã chiếu ánh sáng lý tính vào mọi bình diện xã hội, và canh tác đất đai cũng không phải ngoại lệ. Các nông dân cảm thấy bị tấn công bởi những ý tưởng mới về tính hiệu quả, thứ vừa che giấu vừa thúc đẩy lòng tham của cải của tầng lớp quý tộc. Nhiều trí thức thời đó tin rằng sở hữu chung chỉ dẫn đến việc đất đai bị sử dụng tùy tiện, tồi tệ, và chỉ có sở hữu tư nhân mới có thể quản lý, cải tạo và làm lợi từ đất đai một cách hiệu quả nhất. Hệ quả là một số lượng lớn nông dân bị tước quyền tiếp cận đất đai trên đó họ đã lao động và canh tác suốt bao đời, một chương đầy máu và nước mắt trong lịch sử tư bản nói riêng và lịch sử nhân loại nói chung.

 

Sự quản lý liều lĩnh và thiếu kiến thức của con người đôi khi để lại hậu quả tính bằng hàng ngàn năm. Kì vĩ hơn sự sống ngắn ngủi của con người rất nhiều (lịch sử nhân loại chỉ là một khoảnh khắc trong lịch sử trái đất), đất đai dường như có thể tự phục hồi khỏi mọi tác động mà con người gây nên nếu được để yên. Tuy nhiên, những trục trặc phát sinh từ các nhà máy điện hạt nhân đã để lại những vùng đất bị nhiễm phóng xạ nặng nề gần như không thể khôi phục, và ngay cả những vùng đất "đã được xử lý" thì cư dân ở đó cũng được khuyến cáo chỉ được đào đến một độ sâu nhất định, bởi vượt qua độ sâu đó là tầng đất nhiễm phóng xạ với chu kì bán rã hàng chục ngàn năm. Simon Winchester kết luận đầy mỉa mai rằng nhân loại, một giống loại nhỏ bé với tuổi thọ không quá dài sinh sống trên bề mặt kì vĩ của Trái đất, rốt cục lại có thể gây ra những tác hại gần như vĩnh cửu lên đất đai.

Tuy vậy, cũng có nhiều tia hi vọng xuất hiện, khi nhân loại bắt đầu ý thức sáng suốt hơn về lợi ích dài hạn cũng như lợi ích chung. Một mảnh đất có thể đem lại nhiều tiền bạc của cải, nhưng sự khai thác cùng kiệt và bất chấp kéo theo mất cân bằng sinh thái cùng ô nhiễm môi trường dần dà tích lũy đến mức độ đủ lớn để đe dọa đến tương lai thấy được của con người. Xét cho cùng thì mọi lợi ích trước mắt đều thật khó đánh đổi với các thảm hoạ lâu dài, vậy nên khai thác thì cũng cần song hành với bảo vệ và bảo tồn. Sự thành lập các khu bảo tồn giúp thiên nhiên có cơ hội phục hồi (bên cạnh những vùng đất không người bất đắc dĩ, cũng được bàn đến trong một chương sách).

Người phương Tây cũng dần ý thức đúng mức về những thực hành ứng xử với đất đai của thổ dân, những kẻ mà xưa kia họ cho là mọi rợ và tất yếu cần bị tước quyền sở hữu đất đai. Simon Winchester dẫn ra trường hợp nước Úc: những vụ cháy rừng khủng khiếp như tận thế ở Úc đã được các thổ dân bản địa đoán trước, bởi người da trắng chê trách tập quán đốt cây bụi của thổ dân mà không hiểu rằng đây là cách kiểm soát diện tích cây bụi, không để chúng lan tràn tạo điều kiện cho một đám cháy lớn không thể dập tắt. Nói cách khác, tri thức bản địa dần được coi trọng hơn, con người bớt đi phần kiêu ngạo để có thể ý thức những hậu quả mình có thể gây ra. Nói gì thì nói, dù con người có đúng là loài thành công nhất hay chỉ đơn giản là loài kiêu căng và ngu muội nhất, thì chúng ta đã, đang và sẽ sống trên đất đai của hành tinh này. Tương lai của nhân loại bởi vậy phụ thuộc khá nhiều vào cách chúng ta ứng xử với đất mẹ.

Nguồn: cluelessreader