Thực hành của ông là viết bằng tiếng Anh trước rồi dịch tác phẩm sang tiếng Nhật, trong nỗ lực tạo ra một "phong cách 'trung lập' không tô vẽ", một phong cách "càng xa càng tốt khỏi những ràng buộc của 'văn học nghiêm túc' để có thể nói bằng giọng văn tự nhiên của riêng tôi". Khi ông giành giải thưởng với "phong cách mới [mà] giống như biểu diễn âm nhạc hơn là sáng tác văn học", "niềm vui và sự phấn khích" đã dẫn đến những khoảnh khắc "hạnh phúc thuần khiết", lên đến đỉnh điểm trong những gì ông coi là cuốn tiểu thuyết thực sự đầu tiên của mình, Cuộc săn cừu hoang.
Mặc dù thường được đồn đoán là ứng cử viên tiềm năng cho giải Nobel, Murakami lại né tránh sự công nhận đi kèm với các giải thưởng. Bất chấp những lời tán dương thường xuyên nhận được sau khi đoạt giải Gunzo, trong bài luận “Về các giải thưởng văn học”, ông thừa nhận rằng ông thà có “những độc giả tốt” “bỏ ra hai mươi hoặc ba mươi đô la” còn hơn là “giải thưởng, huy chương, hay lời khen ngợi của giới phê bình”. Ông tin rằng “chính tác phẩm văn học mới trường tồn, chứ không phải giải thưởng văn học”. Mặc dù một giải thưởng “có thể làm nổi bật một tác phẩm cụ thể, […] nhưng nó không thể thổi hồn vào tác phẩm đó”.
Trên thực tế, chính những độc giả được kính trọng mới là người nhận được nhiều sự chú ý nhất trong suốt 11 bài luận. Những người ủng hộ như vậy tạo nên cốt lõi trong nguồn sống của Murakami. Ông tin rằng “trách nhiệm lớn nhất của một nhà văn là […] tiếp tục mang đến cho họ những tác phẩm tốt nhất mà mình có thể viết ra”. Ngay cả khi “chỉ khoảng năm phần trăm dân số là độc giả tích cực của văn học”, ông vẫn hài lòng “miễn là những người yêu sách vẫn tiếp tục đọc sách”. Xét cho cùng, ở Nhật Bản, con số đó lên tới sáu triệu người.
Với Murakami, tính độc đáo không chỉ quan trọng đối với văn học mà còn đối với âm nhạc và nghệ thuật. Đó là “sự tiến hóa tự nhiên và cần thiết của một tinh thần sáng tạo luôn tự tái tạo”, một “thứ sống động, đang tiến hóa, với hình dạng khó nắm bắt đến mức quỷ quyệt”. Ông nhìn thấy điều đó trong Beatles và Beach Boys; trong nhạc jazz “hấp dẫn” của Thelonious Monk; và trong The Rite of Spring “phi truyền thống” của Igor Stravinsky , “sự giải cấu trúc” của Gustav Mahler đối với khuôn mẫu giao hưởng đã được thiết lập, và “những bản sonata piano tuyệt vời” của Franz Schubert. Những người yêu nghệ thuật từng bị sốc bởi Van Gogh và Picasso; ngày nay, họ thấy tác phẩm của họ “sâu sắc cảm động, sảng khoái, thậm chí là chữa lành về mặt tâm lý”. Murakami tin rằng “bối cảnh tinh thần của độc giả Nhật Bản và Anh” đã mãi mãi thay đổi bởi những phong cách “nổi tiếng” của Natsume Sōseki và Ernest Hemingway (một nhà văn mà Murakami thường xuyên dịch, cùng với F. Scott Fitzgerald).
Murakami liệt kê ba yêu cầu cơ bản cho tính độc đáo: một cảm quan “rõ ràng độc đáo và riêng biệt” về “âm thanh, ngôn ngữ hoặc màu sắc”; một thẩm mỹ có “sức mạnh để tự làm mới”; và yêu cầu rằng “phong cách đặc trưng của một người phải được tích hợp vào tâm lý của độc giả”.
Sau khi tiểu thuyết gia tình cờ cảm thấy thoải mái với tài năng kể chuyện của mình, ông phải quyết định: "Vậy tôi nên viết về điều gì?" Ông cũng có một bài học quan trọng cần học: "Biến thời gian thành đồng minh của bạn". Hai bài luận cuối cùng trong nhóm sáu bài đầu tiên làm nổi bật bản chất của "ma thuật" trong việc viết tiểu thuyết và mô tả quá trình chuyển đổi từ quá trình sang sản phẩm hoàn chỉnh. Những gì ông lấy từ "chiếc rương ngăn kéo tinh thần rộng lớn" đó là những chi tiết mà ông chuyển đổi thông qua trí nhớ và trí tưởng tượng - thông qua cái mà ông coi là "Phương pháp ET" của mình, mà ông pha trộn với nguồn cảm hứng âm nhạc của mình (nhịp điệu, hòa âm, ngẫu hứng). Ông viết như thể mình đang "chơi một nhạc cụ", tìm ra "những hợp âm và âm điệu phù hợp nhất". Giống như người ngoài hành tinh cùng tên trong bộ phim lắp ráp một "thiết bị truyền tín hiệu từ đống rác mà anh ta kéo ra khỏi gara". Sáng tạo truyền cảm hứng cho sự sáng tạo. Tài năng truyền vào ý tưởng.
Trong một bài chỉ trích lan man về hệ thống giáo dục Nhật Bản, ông thừa nhận mình "chưa bao giờ thích trường học". Thay vào đó, ông củng cố "ý thức về mục đích" của riêng mình và khám phá trí tưởng tượng thông qua việc đọc sách riêng tư - "một kiểu trường học thiết yếu của riêng nó", nơi ông "du hành tự do qua thời gian và không gian". Ông định nghĩa một tiểu thuyết gia là "một người liên tục lấp đầy đầu óc mình bằng một thế giới của riêng mình". Trong một bài luận về quá trình khám phá các nhân vật của mình, ông trình bày chi tiết về "những hạn chế về cấu trúc" của góc nhìn ngôi thứ nhất mà ông ưa thích trong các tác phẩm đầu tay trước khi học cách dàn dựng góc nhìn ngôi thứ ba. Khi chuyển từ Biên niên ký chim vặn dây cót (1994–95) sang Kafka bên bờ biển (2002), ông nhận ra rằng mình có thể "trở thành bất kỳ ai [ông] muốn".
Mặc dù Murakami "không có hình ảnh rõ ràng" về độc giả của mình, ông luôn hình dung ra một "độc giả tưởng tượng", một người mà ông hy vọng sẽ làm hài lòng, một người mà ông hy vọng sẽ "cảm nhận được điều gì đó" khi đọc sách của mình. Ông coi một "đường truyền giao tiếp vững chắc" phụ thuộc vào " cảm giác tin tưởng tự nhiên, tự phát ". Trong một cuộc phỏng vấn gần đây, Murakami đã nhấn mạnh mối quan hệ phức tạp giữa nhà văn và độc giả: một nhà văn "xuất sắc" "phải có một động lực rõ ràng . Một sức mạnh thúc đẩy người đọc tiến về phía trước". Ý tưởng của ông về một "tiểu thuyết gia lý tưởng" là sự kết hợp giữa Gabriel García Márquez và Raymond Chandler.
Bài luận cuối cùng, “Đi Nước Ngoài: Một Biên Giới Mới”, thừa nhận việc làm việc với các dịch giả, kết hợp với hợp đồng độc quyền với tờ The New Yorker , đã giúp ông tái định hình bản thân với tư cách một tiểu thuyết gia đại chúng, để trở thành một phần của “ngành công nghiệp văn học”. “ Tiểu thuyết gia như một Nghề nghiệp ” là một đóng góp không thể thiếu để hiểu được tâm trí và phương pháp đáng kinh ngạc của Murakami. Nó cho thấy điều gì đã khiến Murakami hoạt động — trên đường phố và trên trang giấy.
Nguồn: lareviewofbooks