Người ta nói sách của tôi khiến họ lên cơn hoảng loạn: Benjamín Labatut, tác giả Khi ta không còn hiểu thế giới

Thứ Năm, 25/09/2025

Benjamin Labatut. Photograph: Ejatu Shaw

Những cuốn sách xoay quanh vật lý lượng tử và lý thuyết trò chơi của anh đã mang lại cho nhà văn Chile một lượng độc giả trung thành – và cả những người hâm mộ nổi tiếng, từ Stephen Fry, Björk cho đến Barack Obama.

Lược dịch từ bài của tác giả Sam Leith trên The Guardian. 
 

“Tôi biết anh đang cố né tránh,” Benjamín Labatut nói khi tôi đặt vấn đề rằng sách của anh xoay quanh những con người sở hữu trí tuệ siêu phàm, đang vật lộn với những vấn đề tận cùng, “nhưng cách tóm gọn nhất là: ‘Tại sao tôi lại quan tâm đến những nhà khoa học điên rồ?’” Thẳng thắn mà nói, đúng là như thế. Chính xác đó là điều những cuốn sách sâu sắc, giàu tính nghiên cứu của anh đang chạm đến.

Cả hai cuốn sách của Labatut hiện có bản tiếng Anh – Khi ta không còn hiểu thế giới (2020), lọt vào chung khảo giải Booker Quốc tế, và The Maniac, vừa tái bản bìa mềm – đều xoay quanh khoảnh khắc đầu thế kỷ 20 khi giấc mơ về một sự lý giải hợp lý tuyệt đối đối với thế giới bỗng chốc sụp đổ. Đó là thời điểm những phát hiện đảo điên của vật lý lượng tử giết chết mô hình vũ trụ cơ học đồng hồ; và khi định lý bất toàn của Kurt Gödel phá tan dự án duy lý nhằm đặt nền tảng ổn định, bất khả tranh cãi về logic cho toán học.

Karl Schwarzschild

Karl Schwarzschild

Khoảng thời gian ấy cũng trùng khớp với sự ra đời của kỷ nguyên hạt nhân và những khổ đau của cả nhân loại đi kèm nó. Những nhân vật mà Labatut bị thu hút chính là những người theo đuổi các phát kiến ấy, đánh đổi bằng sự bình an – thậm chí là lý trí – của họ. Karl Schwarzschild, người làm nên những phép toán dự báo sự tồn tại của hố đen; Werner Heisenberg, gần như phát điên trên đảo Helgoland; hay Alexander Grothendieck, thiên tài toán học rực rỡ phi thường, nhưng cuối đời sống cô độc ở dãy Pyrenees, lẩm bẩm về ma quỷ.

“Giống như những nhà huyền học: họ đã chạm đến Thượng đế,” Labatut nói. “Và, anh biết đấy, Chúa thì thầm: ‘Có gì đó… phía sau kia.’ Hình ảnh của Đấng Kiến Tạo, tôi nghĩ chúng ta đang đối mặt trực tiếp với nó: loài người đang trưởng thành, và chính vì thế mà ta cảm thấy như thế giới đang đi đến hồi kết. Từ cơ học lượng tử và thuyết tương đối hiện đại đến nay là bao lâu rồi? Một trăm năm? Một trăm năm sau khi Chúa bị đóng đinh, ta mới bắt đầu có Phúc Âm. Giờ đây, chúng ta đang ở ngay điểm đó.”

Trong nhân vật chính của The Maniac, John von Neumann, Labatut tìm thấy thứ mà anh gọi là “tinh thần của thời đại chúng ta”. Von Neumann từng tham gia dự án xây dựng nền tảng cho toán học thuần túy, bị Gödel phá vỡ; anh ta là một nhân tố trung tâm của Dự án Manhattan, thiết kế chiếc máy tính đầu tiên mang hình hài hiện đại, đặt nền móng cho lý thuyết trò chơi và được xem là một trong những cha đẻ của trí tuệ nhân tạo. Von Neumann cũng là một con người rối loạn, ích kỷ, đôi khi dường như vô đạo đức, sở hữu một trí tuệ mà Labatut gọi là “lạnh lùng, tính toán, sắc bén và tàn nhẫn”.

Trong các bức chân dung mà Labatut dựng nên, cảm thức tôn giáo bao trùm cả những người đàn ông lý trí nhất từng sống. Mơ về một thiên đường thế tục, anh nói, chúng ta đã giết Chúa và thay thế Ngài bằng lý trí – nhưng “nhân loại sẽ không bao giờ rũ bỏ được khao khát vươn đến cái tuyệt đối, nó đã được lập trình vào tâm trí ta”. “Mỗi một nữ thần và mỗi một vị thần bị ta hạ gục chỉ đem lại cho ta nhiều quyền năng hơn… và nhiều tuyệt vọng hơn. Nó chỉ gieo thêm một bóng tối lớn hơn cho thế giới,” anh nói. “Anh ngước mắt nhìn về phía ánh sáng và bị chói lòa: bởi AI, bởi công nghệ, bởi giấc mơ lên các vì sao. Rồi anh quay đầu lại và thấy những con quỷ kiểu Lovecraft đang trỗi dậy từ chính trong ta.”

Đã là một cái tên nổi bật ở thế giới nói tiếng Tây Ban Nha, Labatut bắt đầu gây chú ý tại cộng đồng độc giả tiếng Anh nhờ giải Booker Quốc tế và nhờ Barack Obama nhắc đến sách của anh. Khi trò chuyện với tôi, anh vừa trở về từ một buổi phỏng vấn trực tiếp trên sân khấu cùng Stephen Fry tại Liên hoan Hay. Hai cuốn sách đầu tiên của anh viết bằng tiếng Tây Ban Nha, anh còn trực tiếp tham gia vào bản dịch tiếng Anh của Khi ta không còn hiểu thế giới, nhưng The Maniac lại được viết hoàn toàn bằng tiếng Anh – một ngôn ngữ mà anh khẳng định “tôi xem như tiếng mẹ đẻ”, dù thực tế thì không.

Khi được hỏi về tuổi thơ nhiều lần di chuyển, anh chỉ cười: “Ước gì có câu chuyện nào đáng kể. Nhưng chẳng có gì cả. Cha tôi đi làm việc. Tôi sinh ở Hà Lan, sống đó đến năm hai tuổi, về Chile cho đến năm tám tuổi, rồi lại quay về Hà Lan. Ở đó đến khoảng 15, 16 tuổi. Nói cách khác, gia đình tôi di chuyển nhiều, và đôi khi tôi đi cùng.”

“Tôi lớn lên nửa ở Chile, nửa ở Hà Lan, nói tiếng Anh – điều đó thật kỳ quặc. Vậy nên tôi không thực sự là người Chile; càng không phải người Hà Lan. Thử giải thích với ai đó rằng tôi lớn lên bằng cách xem BottomThe Young Ones trên băng VHS, đọc tiểu thuyết Red Dwarf đi. Người ta bảo: ‘Ồ, thế anh thích khoa học à?’ Tôi bảo: ‘Ừ, tôi đọc Douglas Adams từ nhỏ, và từ đó đến nay tôi không thể nghĩ theo cách nào khác nữa.’”

Khi tôi hỏi anh có thực sự hiểu sâu những khái niệm toán học và phương trình Schrödinger mà anh viết hay không, Labatut cười: “Tôi còn không thể dạy toán cơ bản cho con gái 12 tuổi của mình. Tôi chẳng biết gì về toán. Nhưng tôi nghĩ bộ óc của một nhà văn không hoạt động bằng hiểu biết, mà bằng sự đồng cảm.”

“Điều làm tôi say mê nhất là những gì vẫn còn là bí ẩn, những gì chưa có lời giải. Trong sách của mình, tôi thích mời độc giả đi xuống một lần nữa, quay về bóng tối, để tận hưởng cái khoái cảm hiếm hoi của việc hiện diện trước một cái gì đó mà như Grothendieck nói là vừa khổng lồ vừa tinh tế; yên lặng nhưng, anh biết đấy, cuồn cuộn.”

“Tôi không phải một nhà tư tưởng nghiêm túc,” anh tiếp tục. “Tôi là một nhà văn: điều đó rất khác. Tôi nghĩ trí tuệ của một nhà văn phải sống động, phải dang dở. Nó phải mang trong mình mâu thuẫn. Nó phải ngẫu hứng, nghiệp dư.”

Labatut thẳng thắn gạt bỏ hầu hết những điều mà tiểu thuyết (kể cả tiểu thuyết của anh) thường làm tốt. Khi tôi khen anh khắc họa giọng điệu đa dạng của nhân vật rất ấn tượng, anh đáp: “Tôi không hứng thú. Và tôi cũng không nghĩ mình giỏi khoản đó. Phần lớn thứ mà người ta coi là ‘viết hay’ thực ra chỉ là tài bắt chước giọng và xây dựng nhân vật. Tôi chẳng hứng thú.”

“Từng chương một, tôi luôn nghĩ mình phải truyền tải một ý tưởng nào đó. Tôi muốn độc giả cảm nhận được cuộc khủng hoảng trong nền tảng toán học. Tôi muốn họ thấy sự kinh hoàng lẫn vẻ đẹp của những bước đi đầu tiên trong kỷ nguyên hạt nhân.” Việc “bắt giọng” nhân vật khiến anh gần như bật ra một tiếng kêu phẫn nộ: “Chúng chẳng quan trọng với tôi! Ở London, anh bước ra đường, nghe hàng trăm giọng nói quanh mình. Ghi âm lại và bắt chước đi! Có khó gì đâu! Tôi không hiểu tại sao lại phải tung hô chuyện đó. Điều khó khăn thật sự là khiến một nhân vật thốt ra điều gì đáng suy nghĩ!”

“Tôi quan tâm đến ý tưởng,” anh khẳng định. “Văn chương ngày nay phần lớn không phải về ý tưởng, mà xoay quanh những thăng trầm cá tính con người. Những thứ ấy làm tôi chán chết. Tôi không đọc nổi tiểu thuyết nào suốt cả thập kỷ rồi.” Ở tuổi ngoài 40, Labatut nói anh đánh mất niềm vui với tiểu thuyết sau một “cuộc khủng hoảng” ở tuổi 30, thứ đã “làm hỏng phần não có thể thưởng thức trò chơi của tự sự.”

Anh giải thích: “Những người tôi ngưỡng mộ nhất trong mọi lĩnh vực đều có khả năng kỳ diệu để tiềm thức thấm vào công việc họ làm. Tôi tin rằng hình thức trí tuệ cao nhất là trạng thái bị ‘ám’ từ bên ngoài. Tôi biết mình không có điều đó, nên đã làm nhiều chuyện rất liều lĩnh để khởi động nó. Khi anh tự đưa mình vào những thử thách kiểu đó, anh chẳng bao giờ biết tâm trí mình sẽ thành hình gì sau cùng. Nó thật sự thảm khốc với tôi theo nhiều cách, nhưng đồng thời cũng mở ra một con đường riêng cho việc viết.”

Khi tôi hỏi bóng gió về việc liệu anh có dùng chất kích thích hay không, Labatut cười: “Không sao. Anh cứ tò mò nhưng tôi sẽ né. Chỉ cần nói rằng có nhiều cách cổ điển và hiện đại để mở rộng nhận thức, vượt qua điểm mù, và chúng có tác dụng. Vấn đề là anh chẳng bao giờ biết chúng sẽ tác dụng kiểu gì.”

Nếu gọi Labatut là một “tiểu thuyết gia phi hư cấu”, người ta có thể lầm anh với làn sóng tự truyện giả tưởng đang bùng nổ – nhưng đó sẽ là sai lầm. Anh giống Tom McCarthy hơn nhiều so với Rachel Cusk hay Karl Ove Knausgård. Anh từng nói rằng mình nhớ cái thời nhà văn viết “tôi” và ai cũng biết đó là lời nói dối. “Chẳng phải tuyệt sao?” anh cười. “Tôi nghĩ Bolaño nói là hay nhất: nếu anh là một kẻ giết người hàng loạt, hay một thám tử ở Mexico City, nếu anh buôn vũ khí với Rambo, thì cứ viết tự truyện đi. Nếu anh là gái điếm được trả lương cao nhất thế giới, thì viết tự truyện đi.”

Anh dừng lại, khẽ cười. “Nhưng với tôi thì không. Thế giới ngoài kia thú vị hơn nhiều. Cái kiểu nghệ thuật chỉ phản chiếu lại kinh nghiệm chung của con người… Ồ, đã có EastEnders cho việc đó rồi.”

“Nhưng mà…” tôi nói. Giọng điệu, nhân vật, cảm xúc, tình yêu, tình bạn, sự nghiệp – chẳng phải đó là nền tảng của tiểu thuyết từ thế kỷ 19 sao? “Nếu văn chương thật sự tuyệt, thì chẳng vấn đề,” anh thừa nhận, rồi bất ngờ biến sự khinh suất thành một nét khiêm tốn. “Được thôi. Tôi chỉ không phải là một nhà văn giỏi đến thế – nên tôi buộc phải viết về những điều thú vị. Nếu tôi là một nhà văn bậc thầy, một nghệ sĩ ngôn từ, chắc chắn tôi sẽ kể cho mọi người tôi đã ngủ với ai và ăn gì sáng nay. Nhưng vì tôi chưa bao giờ xem mình là giỏi đến thế, tôi phải viết về những điều sâu sắc và khó hiểu nhất ngoài kia.”

Phần cuối của The Maniac mô tả – “gần như tường thuật thể thao” – chiến thắng của AI trước một cao thủ cờ vây con người. Sự trỗi dậy của AI là di sản của Von Neumann, và Labatut hoàn toàn không bị thuyết phục bởi luận điểm cho rằng nó chỉ là “tự động gợi ý có muối”. “Khi anh có một hệ thống toán học có thể vận hành ngôn ngữ, tức là hai thứ quyền năng nhất mà loài người từng tạo ra – toán học và ngôn ngữ – đang kết hợp với nhau,” anh nói. “Tôi nghĩ chúng ta đang đứng ngay bờ vực của một điều gì đó, nếu không muốn nói là đã vượt qua rồi. Tôi tin rằng thảm họa AI đầu tiên, với tình trạng các tập đoàn lớn lao vào cuộc đua xuống đáy, gần như chắc chắn sẽ xảy ra.”

Anh kết lại: “Lời khen hay nhất mà tôi từng nhận được là khi có người nói: ‘Sách của ông khiến tôi lên cơn hoảng loạn. Tôi bắt đầu thấy không ổn. Tôi không thể đọc tiếp được.’ Hoặc: ‘Tôi đọc xong sách, rồi thấy một tin tức về AI và lên cơn hoảng loạn.’ Thế thì quá tuyệt! Sách phải khiến người ta hoảng loạn – hoặc ít nhất chỉ ra con đường dẫn đến cảm giác đó.”